Bệnh xuất huyết

Tác nhân gây bệnh:

Là các loài Aeromonas di động, bao gồm A. hydrophila, A. caviae, A. sobria. Đặc tính chung của ba loài vi khuẩn này là di động nhờ có 1 tiên mao (hình 1). Vi khuẩn Gram âm dạng hình que ngắn, hai đầu tròn, kích thước 0,5 x 1,0-1,5 mm.Vi khuẩn Aeromonas hydrophila

Hình 1: Vi khuẩn Aeromonas hydrophila  có một tiên mao. ảnh kính hiển vi điện tử  (theo Bùi Quang Tề, 1998).

Dấu hiệu bệnh lý:

Bệnh nhiễm trùng ở cá da trơn thường biểu hiện ở các dạng khác nhau:

  • Hoại tử da và cơ: Đốm đỏ xuất huyết.
  • Vây bị phá huỷ: Gốc vây xuất huyết, tia rách nát và cụt dần.
  • Xoang bụng sưng to, các cơ quan nội tạng gan, thận bị xuất huyết và hoại tử (dịch hóa), ruột viêm và chứa đầy hơi (hình 20F).

Đối với từng loài cá có các dấu hiệu bệnh lý cụ thể như sau:

  • Dấu hiệu đầu tiên là cá kém ăn hoặc bỏ ăn, nổi lờ đờ trên tầng mặt. Da cá thường đổi màu tối không có ánh bạc, cá mất nhớt, khô ráp. Xuất hiện các đốm xuất huyết màu đỏ trên thân, các gốc vây, quanh miệng, râu xuất huyết hoặc bạc trắng. Xuất hiện các vết loét ăn sâu vào cơ, có mùi hôi thối, trên vết loét thường có nấm và ký sinh trùng ký sinh. Mắt lồi đục, hậu môn viêm xuất huyết, bụng có thể chướng to, các vây xơ rách, tia vây cụt dần (hình 2).
  • Giải phẫu nội tạng: Xoang bụng xuất huyết, mô mỡ cá ba sa xuất huyết nặng. Gan tái nhợt, mật sưng to, thận sưng, ruột, dạ dày, tuyến sinh dục, bóng hơi đều xuất huyết. Có trường hợp cá ba sa 2 đoạn ruột lồng vào nhau. Xoang bụng có chứa nhiều dịch nhờn mùi hôi thối.

Bệnh xuất huyết
Hình 2: A- Cá Tra giống bị bệnh xuất huyết do vi khuẩn Aeromonas hydrophyla trên các vây xuất huyết; B- Cá tra hương bị bệnh xuất huyết; C- Cá Ba sa bị bênh xuất huyết.

Phân bố và lan truyền bệnh:

  • Bệnh nhiễm trùng do nhóm vi khuẩn Aeromonas spp di động thường gặp ở nhiều loài động vật thuỷ sản nước ngọt. ở Việt Nam các loài cá nuôi lồng, bè và nuôi ao nước ngọt thường gặp bệnh đốm đỏ như: Cá Ba sa, Cá Tra nuôi bè, cá trê, cá nheo… Tỷ lệ tử vong ở cá da trơn thường từ 30-70% riêng ở cá giống (Cá Tra, Cá Ba sa, Cá Trê) có thể chết tới 100%.
  • Bệnh xuất hiện quanh năm nhưng thường tập trung vào mùa xuân và mùa thu ở miền Bắc, ở miền Nam bệnh phát nhiều vào mùa mưa

Phòng và trị bệnh:

+ Phòng bệnh: quan trọng nhất không để cho cá bị sốc do môi trường thay đổi xấu: nhiệt độ, oxy hoà tan, nhiễm bẩn của nước. Môi trường nước đảm bảo tốt cho đời sống của cá nuôi.

Đối với bè nuôi cá thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, mùa khác một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hoá môi trường nước. Lượng vôi tính trung bình 2 kg vôi nung/10m3. Bè lớn treo nhiều túi và bè nhỏ treo ít túi tập trung ở chỗ cho ăn và phía đầu nguồn nước chảy. Đối với các ao nuôi áp dụng tẩy dọn ao như phương pháp phòng tổng hợp. Cũng định kỳ mùa bệnh 2 tuần bón vôi xuống ao 1 lần, mùa khác bón 1 tháng 1 lần, liều lượng trung bình 2 kg vôi nung/100 m3 nước. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm lượng vitamin C cho vào thức ăn trước mùa bệnh hoặc dùng thuốc phối chế KN – 04 -12, của Viện NCNTTS I và NANO TD-01C cho cá ăn phòng bệnh, định kỳ 1 tháng cho ăn một đợ 3 ngày liên tục, liều lượng như phần trị bệnh.

+ Trị bệnh: Có thể dùng một số thảo mộc có tác dụng diệt khuẩn điều trị bệnh nhiễm khuẩn máu như sau:

+ Cá giống dùng phương pháp tắm thời gian 1 giờ.

NANO TD-01C nồng độ 20-25 ppm (20-25ml/m3)

+ Cho cá ăn thuốc trộn với thức ăn viên. Cho cá ăn liên tục từ 5-7 ngày.

– Thuốc KN-04-12: liều dùng 4 g/1 kg cá/ngày.

– Thuốc NANO TD-01C: 0,1ml/1 kg cá/ngày

TS. Bùi Quang Tề